Theo lệ, sáng chủ nhật, tôi lại gởi cho An tin nhắn: Bích Câu, 8g30. Ok?
Và cũng theo lệ, An đến sau
mươi phút. Bạn thân gặp nhau hàng tuần,
chỉ thấy mặt nhau là vui rồi. Chúng tôi nói chuyện thời sự với nhau trong khi đôi mắt bâng
quơ nhìn mây nước.
An không mặn mà nhiều đến
“hòa bình thế giới”. An đã buông bỏ nhiều thứ .Chuyện thời sự thế giới, những nhân vật lớn
bé xuất hiện trên màn ảnh nhỏ chỉ là chuyện phiếm để giúp vui buổi cà phê cuối
tuần thôi. Đã xa rồi những hẹn hò của thời tuổi trẻ với những ước mơ, những
hoài vọng lung linh thì ngồi quán với bạn cũng vui một buổi. Và quán Bích Câu là nơi đem lại cho chúng tôi những buổi thảnh thơi êm ả.
*
Quán cà phê nằm giữa vườn
cây, đá cảnh của hội sinh vật cảnh thành phố, mà vườn cây cảnh lại là một hòn đảo
nhỏ giữa hồ Xuân Hương nên cảnh hữu tình, thi vị, thơ mộng vân vân không nói hết.
Đây lối vào là cây cầu nhỏ, đầu cầu là mấy hòn đá cảnh đẹp màu cổ độ, kia là những
bồn hoa vàng, tím, đỏ đung đưa trong nắng tháng ba.
Ở khúc quành gần bên cây cầu
nhỏ dẫn ra cổng có mấy chậu cây cảnh thật lớn, những cây trong chậu trông thật
kỳ vĩ so với những ngôi nhà, con vật cảnh trong chậu. Cái kỳ vĩ, cao ngạo của sự già nua,
cằn cỗi, của một kẻ trải đời nhìn thế hệ trẻ đang hăm hở lao vào đời
như côn trùng đua nhau lao vào ánh sáng đèn với đôi mắt nheo nheo khinh bạc.
Chung quanh các chậu cây cảnh là những bồn hoa muôn sắc màu, xinh tươi mơn mởn…
Nhìn cội thông cổ thụ già nua, cáu kỉnh trong
chậu kiểng rồi hướng về hoa lá mơn mởn rập rờn chung quanh nó, An nói như nói thay cho cội
thông cổ thụ: Mùa xuân, tình yêu, hạnh
phúc – làm sao cái điều dối trá khờ khạo và điên rồ như thế mà mãi các người vẫn
không chán; quanh đi quẩn lại vẫn chỉ có thế, và vẫn chỉ là một sự dối trá
mà thôi!...
Lời nói nghe quen quen, a,
chính là lời cây sồi nói với cây cỏ tươi xanh ( và cũng là lời Andrei, một nhân vật trong tác phẩm "Chiến tranh và hòa bình") khi chàng đi qua cánh rừng mùa xuân ở nước
Nga cách nay đã mấy trăm năm, lúc ấy, Andrei vừa bình phục sau khi bị thương từ
một trận đánh lớn. Thế trận phe chàng tan vỡ và lý tưởng về cuộc chiến cũng tan
vỡ vì chàng đã nhận rõ những xấu xa và những mưu đồ cá nhân thấp hèn trong hàng
ngũ tướng tá. Từ đó Andrei không thiết gì đến công danh, sự
nghiệp…Trong tâm trạng đó chàng gặp cây sồi này.
Câu nói của cây sồi cổ thụ bi
quan đến mức tôi phải cau mày. Nhìn cội thông cô đơn mà khinh bạc, tôi nói: Phải, làm gì có mùa xuân, tình yêu, hạnh phúc trên chậu cây cảnh
đẹp đẽ, quý phái trị giá hàng trăm triệu như nơi đây! Cội thông cằn cỗi kia, mi
hãy gieo trong gió những hạt giống bay đến một bờ bãi hoang dại đằng xa kia, mi
hãy từ bỏ cái điệu khinh khỉnh, lạnh lùng để bước xuống khỏi bồn cây cảnh, đến với
cỏ hoa đang vui đùa quanh mi may ra mi mới có một mùa xuân mới thôi. Như tiếp lời tôi, trong đám cỏ non bên dưới chân chậu kiểng, những đóa hoa diếp dại vàng tươi đang nở nụ cười hồn nhiên, mộc mạc mà tươi tắn đón gió xuân.
Mặc An bâng khuâng với những cội thông cau có, (cũng là cây sồi cằn cỗi khó chịu và bi quan trong "Chiến tranh và hòa bình, tiểu thuyết của văn hào Leo Tolstoy) tôi và bạn sẽ cứ đến Bích Câu mỗi sáng Chủ Nhật, với cỏ hoa và cây đá đua chen khoe vẻ đẹp muôn màu. Nơi đây có chỗ cho người lớn ngồi thảnh thơi giữa cảnh thiên nhiên xinh đẹp,
có bãi cỏ rộng cho trẻ con chạy nhảy chơi đùa.
Đây sẽ là nơi tôi sung sướng được khoe với bạn bè từ xa đến thăm phố núi.
thanhdalat
28/04/2013 ------------- (*) Chiến tranh và hòa bình -Leo Tolstoy
1. Quen Khanh đã ba năm, tôi không hề biết anh là người Huế. Anh nói tiếng Nam ngọt xớt. Những danh từ rất Nam bộ như “hưỡn”, “xí xọn”… anh đều hiểu rõ và đôi khi còn áp dụng vào những câu chuyện khôi hài rất có duyên. Cho đến khi tình cảm hai đứa chín muồi, Khanh ngõ ý:
-Ba me anh muốn biết mặt em.
Tôi theo Khanh về nhà trong tâm trạng vô cùng hồi hộp. Dù đã chuẩn bị tinh thần, nhưng tôi vẫn cảm thấy bối rối, chân tay thừa thải trước tia nhìn vừa dịu dàng vừa soi mói của mẹ Khanh. Đó là người phụ nữ ngoài năm mươi, gương mặt tròn trịa, nước da trắng mịn phảng phất vài nếp nhăn nơi đuôi mắt. Tóc bà nhuộm màu nâu đen, được bới cao, cài trâm đồi mồi trông rất quí phái. Bà trang điểm nhẹ nhàng, một chút phấn hồng và môi son màu nhạt.
-Thưa mẹ, đây là Kiều Tiên, bạn gái của con.
Nụ cười của bà thật tươi:
-Kiều Tiên à? Cái tên dễ thương hí. Ngồi chơi đi cháu. Chờ bác một chút.
Bà đứng dậy đi vào trong, để lại tôi ngơ ngác sau khi nghe một loạt âm thanh líu lo như chim hót. Khanh nheo mắt:
-Sao? Không hiểu à? Anh đã nói rồi, gia đình anh người Huế, vậy mà không tin. Em có phải là chắt nội của Tào Tháo không đó?
Mẹ Khanh ra, trên tay bưng một cái dĩa hình bầu dục tráng men xanh. Bà đến gần tôi, đặt dĩa lên bàn:
-Ăn đông sương với bác cho vui.
Đông sương? Không phải. Đó là những miếng thạch dày khoảng hai phân, được cắt thành từng miếng hình thoi bằng ba ngón tay. Rải rác giữa lớp thạch trong suốt là những khối vuông nhỏ màu trắng, đen, nâu, cam và xanh lá cây.
Mẹ Khanh nhìn tôi chăm chú. Hình như bà đang nghĩ, con nhỏ này câm chắc? Và tôi cũng nghĩ, Kiều Tiên, hãy nói một câu gì đi chứ.
-Cháu cám ơn. Ô, thạch của bác làm đẹp quá.
Mẹ Khanh vui vẻ:
-Người Huế gọi thạch là đông sương cháu à. Cháu ăn đi, đừng sợ, bác không dùng màu thực phẩm mô –rồi bà lấy tăm ghim miếng thạch lên săm soi –cháu coi màu nì, màu trắng là sữa, đen là cà phê, nâu là cà phê sữa, lục là nước lá dứa, còn màu gạch là nước cà rốt.
Màu “gạch” là màu “cam”! Tôi lại học được một từ đặc trưng của Huế. Miếng thạch ngọt thanh tan trên đầu lưỡi, thấm vào lòng tôi những cảm giác dịu êm.
Cổng nhà Khanh bỗng mở toang. Một người đàn ông trung niên,giống Khanh như tạc phóng xe máy vào. Ông đứng trước thềm, tươi cười nhìn mẹ Khanh rồi chỉ tay vào giỏ xe: một chậu hoa dâm bụt vừa nở hai nụ hàm tiếu màu vàng. Mẹ Khanh đến gần, ngắm nghía:
-Mình mới mua hả? Ôi bông cẩn vàng, đẹp thiệt đó.
Tôi tròn mắt. Khanh ghé vào tai tôi:
-Người Huế gọi “Hoa dâm bụt” là “bông cẩn”.
Ba Khanh bước vào phòng khách, mẹ Khanh theo sau bảo Khanh:
-Con bưng chậu hoa xuống rồi đi cất xe cho ba.
Tôi đứng dậy, vòng tay:
-Cháu chào bác ạ.
-Cháu là bạn gái của Khanh phải không? Bác gái nói cho bác biết rồi.
Ba Khanh ngồi đối diện tôi, hỏi han ân cần. Giọng ông ấm áp, tuy âm sắc hơi nặng, có nhiều từ tôi không hiểu rõ, chỉ lờ mờ đoán ra. Nhưng ánh mắt ấy, cử chỉ ấy đã nói lên một tình cảm chân thành.
2. Tôi nhận lời cầu hôn của Khanh, mặc cho những lời bàn ra tán vào của đám bạn. Thật ra cũng vì thương tôi, nên chúng nó mới đề cao cảnh giác nhiệt tình như thế. Nào là: “Công dung ngôn hạnh mày có được bao nhiêu mà dám uống thuốc liều hở?”, “Làm dâu người Huế khó lắm, mày chịu được sao?”, “Chúng tao khuyên mày nên đi học vài khoá nấu ăn, làm bánh mới đủ sức đối phó.”…
Tôi bịt hai tai, hét:
-Chúng mày có im hết đi không? Tình yêu của Khanh đã cho ta đầy đủ mười thành công lực.
Nói thì oai lắm, nhưng lòng tôi cũng hơi run khi nghe ba Khanh bảo:
-Đám cưới xong, Khanh nên đưa Kiều Tiên về Huế thăm mệ và mấy O. Xa xôi quá, không ai vào chung vui cùng hai con được. Ba nghĩ là họ rất mong thấy mặt con dâu của ba.
Tôi lại càng run. Cái gì “mệ”, cái gì “O”?
Khanh lại “phụ đề Việt ngữ”:
-Mệ là… bà nội của anh đó. Còn O là hai người em gái của ba.
-Như vậy “O” có nghĩa là “cô” phải không anh?
-Đúng. Cho em 10 điểm. Còn “mệ”?
-Mệ là… bà nội chớ gì.
-Mệ là bà thôi. Mệ nội, mệ ngoại, là bà nội, bà ngoại.
-Sao hồi nãy anh nói mệ là bà nội? Tiền hậu bất nhất, cho anh zéro điểm là vừa.
-OK, anh chịu thua em 1 – 0 đó, bây giờ nghe anh nói tiếp nè.
-Bộ anh muốn em loạn thần kinh hả?
Khanh dỗ dành:
-Nếu em không chịu cho anh truyền thêm nội công thì làm sao ứng phó với bà con nội ngoại của anh ngoài Huế chứ.
Có lý. Mặc dù tôi chưa quen nghe giọng Huế, nhưng nếu tôi hiểu được những từ người Huế thường dùng, thì sự đồng cảm giữa tôi và “giang sơn nhà chồng” sẽ dễ dàng hơn. Tôi lấy tờ giấy và cây bút:
-Được rồi, anh nói đi. Em sẽ ghi và học thuộc lòng.
Khanh phấn chấn ra mặt:
-Em ngoan quá –rồi tằng hắng –Anh bắt đầu nè. Người Huế từ “mô” là “đâu”, ví dụ “anh đi mô?” có nghĩa là “anh đi đâu?”, “bên ni” là “bên này”, “bên nớ” là “bên kia”, “răng” là “sao”, “rứa” là “thế”, “kiệt” là “hẻm”, “tra” là “già”, “ăn kỵ” là “ăn giỗ”…
Đầu óc tôi lùng bùng, tay chân tôi quờ quạng. Khanh đặt câu hỏi:
-Đố em, “ôn” là gì?”
Tôi xếp giấy lại, thở phào:
-Anh hết vốn rồi hả? Đố như anh, con nít cũng biết. Ôn là ôn tập chớ gì.
Khanh kí vào đầu tôi:
-Cho em xuống học lớp Lá là vừa. “Ôn” là “Ông”. Gặp các ông già, người ta thường “Thưa ôn”, cũng như đối với các bà lão, người ta thường “thưa mệ”…
Khanh tiếp tục đưa tôi vào mê hồn trận:
-À, anh nhắc em điều này, nếu thấy một người đàn ông được gọi là “Mệ” thì em cũng đừng ngạc nhiên, vì đó là những người trong hoàng tộc…
Tôi hét lên:
-Cái gì? Ôi em bị tẩu hoả nhập ma rồi.
3. “Giang sơn nhà chồng” của tôi toạ lạc giữa một khoảng vườn xanh tốt trong thành nội, gồm ba căn nhà trệt lợp ngói rộng rãi, ngăn cách nhau bởi các dãy hàng rào bằng cây thấp, lá nhỏ, quấn quít những sợi dây leo màu vàng. Khanh nói:
-Bà nội anh rất thích chăm sóc vườn tược. Hàng rào chè tàu này còn già hơn tuổi của anh nữa đó, còn kia là những dây tơ hồng. Em thấy có đẹp không? Ngày trước, nhà anh chỉ có một căn thôi, sau này hai O lập gia đình, bà nội mới xây thêm hai căn nữa, của hồi môn ấy mà.
Có tiếng reo:
-Khanh, cháu Khanh đó phải không?
Một phụ nữ khoảng trên dưới năm mươi, mặc quần tây nâu, áo hoa sặc sỡ, từ căn nhà bên phải chạy ra. Tóc bà uốn cao, nước da trắng, miệng cười có má lúm đồng tiền.
-Đây là O Hương của anh.
-Cháu chào… O ạ.
O Hương tiến đến gần, vuốt má tôi:
-Vợ thằng Khanh đây hả. Chà, hai đứa xứng đôi lắm đó nghe –rồi bà kéo tay tôi và Khanh về phía căn nhà giữa –Mạ ơi, vợ chồng Khanh về tới rồi nì.
Khanh nhìn sang căn nhà bên trái cửa khoá ngoài. O Hương nói:
-O dượng Hoà về làng ăn kỵ rồi. Chắc là mai mới lên.
Nãy giờ tôi cố ý lắng nghe. Eureka, tôi đã nhớ. “Ăn kỵ” là “ăn giỗ”, còn “mạ”? Chắc là “mẹ” rồi. Xem ra tiếng Huế đâu có khó gì, khỏi cần Khanh làm thông dịch.
Bà nội của Khanh rất đẹp lão. Mái tóc bà bạc phơ, gương mặt hồng hào, phúc hậu. Bà đang ngồi trên chiếc ghế mây cạnh ngưỡng cửa, miệng cười móm mém, âu yếm nhìn Khanh đi bên tôi.
-Chúng cháu chào mệ.
Bà gật đầu rồi đưa tay níu lấy vai Khanh:
-Đỡ mệ vô nhà.
Bà nhỏ bé trong vòng tay Khanh, bước chân bà khập khiểng. Khanh lo lắng:
-Mệ, mệ bị sao vậy?
O Hương đỡ lời:
-Hôm qua mệ ra vườn tưới cây, mệ bị bổ.
-Im đi, tau bớt rồi –bà nhìn O Hương từ đầu đến chân –mi bận cái áo chi mà loè loẹt rứa? Tra rồi, gần làm mụ gia rồi, còn bày đặt diện.
Tôi nói nhỏ với Khanh:
-Em hiểu từ “tra” rồi, nhưng “bổ”là gì? Còn “mụ gia”?
-“Bổ” là “té”, còn “mụ gia” là “mẹ vợ” hoặc “mẹ chồng”. Xứ Huế anh có câu: “Thương chồng mà khóc mụ gia, chớ tui với mụ chẳng bà con chi.”
Tôi che miệng cười. Bà nội Khanh ngồi trên sập gụ, vẫy Khanh và tôi lại gần. Bà vuốt tóc tôi:
-Mệ có coi bóng đám cưới, trông cháu đẹp hơn trong bóng nhiều. Biết hai cháu sắp ra thăm mệ, đêm mô mệ cũng nằm chộ.
Khanh thông dịch ngay:
-“Bóng” là “hình”…
Tôi ngắt lời:
-Còn “nằm chộ” là “nằm mơ”, đúng không?
-Very good, em thông minh thật đấy.
Bà nội Khanh có vẻ thích tôi. Bà kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện, từ chuyện làng xóm, đến chuyện những người trong họ tộc, chuyện gia đình Khanh… giọng bà nhẹ nhàng, thân ái. Vì đã ôn tập trước, nên những từ rặt Huế như răng, mô, tê, rứa… tôi hiểu dễ dàng. Và càng lúc, tôi càng thấy gần gũi bà, thương yêu bà hơn.
-Cháu biết không? Chồng của cháu rất thích ăn chè thịt quay.
Chè thịt quay là gì? Tôi nhìn quanh tìm Khanh. Nhưng thôi, khỏi cần thắc mắc, chẳng qua cũng chỉ là món chè bình thường, cứ ăn vào là biết ngay thôi mà. Bà gọi:
-Hương ơi, lấy cà mèn đi mua chè thịt quay cho các cháu ăn đi con.
O Hương bảo Khanh:
-Cháu qua nhà dắt dùm chiếc xe ra cho O.
-Để cháu chở O đi.
Khanh đến bên tôi:
-Em ở nhà với mệ được không?
Tôi vênh mặt:
-Anh khỏi lo. Mệ nói gì em cũng hiểu hết.
*
Tôi đi thơ thẩn trong vườn. Nắng chiều dìu dịu, gió chiều êm ái. Lòng tôi rộn vui theo tiếng chim hót chuyền cành. Hình như bà nội gọi: